1. Báo cáo của Mr linh về Training Media.
“Công ty Veronis Suhler Stevenson - VSS (www.vss.com) của Mỹ, chuyên đầu tư vào các quỹ và doanh nghiệp trong lĩnh vực truyền thông, thông tin và giáo dục ở khu vực Bắc Mỹ và châu Âu, vừa đưa ra dự báo rằng trong năm 2008,
ngành truyền thông Mỹ có khả năng thu trên 1.000 tỷ USD từ các dịch vụ truyền thông.
Tại Việt Nam năm 2005, thị trường quảng cáo truyền thông ước đạt 300 triệu USD , mỗi năm dự kiến sẽ tăng trưởng từ 30% đến 40% .”
- Các con số anh Linh đưa ra là năm 2008, anh dùng từ “dự báo” hình như ‘có vấn đề’ bởi anh lấy con số thống kê quá cũ. Người ta chỉ dự báo cho tương lai, không ai dự báo cho quá khứ.
“Thị trường VN đang thay đổi rất nhanh. Lúc này là thời điểm mà các thương hiệu mạnh trong nước phát triển và bành trướng. Dĩ nhiên các công ty, tập đoàn quốc tế vẫn sẽ tiếp tục nắm giữ thế mạnh và có rất nhiều thương hiệu nổi tiếng trên thế giới đã được người tiêu dùng VN chấp nhận. Vì vậy sự phân biệt đang ngày càng trở nên lu mờ giữa đâu là một thương hiệu trong nước và đâu là một thương hiệu quốc tế.”
- Câu viết chủ quan vì nếu tôi là công ty cần quảng cáo, chẳng có lý do nào tôi chọn công ty trong nước; không phải sính ngoại, nhưng là yên tâm hơn mà thôi khi chọn công ty nước ngoài đã nổi tiếng.
“Liên kết giới thiệu du học tại trường New York Film Academy Hoa Kỳ ”
- Trong thời điểm các trường liên kết bị phản ứng tiêu cực dữ dội trên báo chí, câu văn khiến tôi nghi ngờ chất lượng loại hình liên kết đào tạo mà anh Linh đưa ra nếu không có thêm chỉ dẫn. Ví dụ: đây là trường được cơ quan nào đó công nhận.
- Không thấy gì đặc sắc ở loại hình đào tạo của trường. Ví dụ: các hoạt động ngoại khóa, hay thực tập mang tính thực tiễn cao. Vì thường giáo dục tại Việt Nam chẳng ăn nhập gì đến thực tế nghề nghiệp. Chưa kể là một số trường cp tiếng (MDIS) cũng đã có môn học này. Làm thế nào thuyết phục tôi chọn công ty?
2. Báo cáo FM Radio của Van và Trang.
“Theo TNS Media, dù hiện nay radio chỉ chiếm 0,6% ngân sách chi tiêu quảng cáo nhưng triển vọng của kênh truyền thông radio là rất tươi sáng và có 288 trạm phát thanh địa phương và 36% thính giả nghe radio thường xuyên ở sáu thành phố lớn.”
- Phải nói thật lòng Trang viết chặt tay, Tuy nhiên chỉ xin có một câu hỏi cho hai người.
- Như Trang viết Radio tuy có số người nghe ở mức chấp nhận được, nhưng thực tế cho thấy, họ nghe để nắm bắt thông tin, chứ không mấy tin là sản phẩm được quảng cáo trên radio là giá cả phù hợp, là tốt... Vì người Việt Nam " trăm nghe không bằng một thấy" và "trăm thấy không bằng một sờ". Họ không muốn là thầy bói xem voi. Đó là lí do tại sao TVShopping đang có chiều nở rộ vì họ ít là nhìn thấy sản phẩm họ sắp mua. Nếu tôi là đối tác, thì Van va Trang có câu trả lời cho câu hỏi này không?
3. Báo cáo Sản xuất phim và Quảng cáo trong phim của Thảo. (Nhóm của Hoàng :))
- Thật ra Thảo đã đi ngoài lề. Chủ đề là “Quảng cáo trong phim” nhưng Thảo đã trình bày thành “Phim quảng cáo”. Có điều là không ai thấy sai ở đây.
- Câu hỏi: Phim được đánh giá theo rating, khi phim chưa chiếu, thì làm sao tôi biết phim của chị hay hoặc dở mà chọn mặt “gửi sản phẩm”. Nếu phim dở thì quảng cáo trong phim có chiều đi xuống, mất sức thu hút khi đấn tay người tiêu dùng? Làm thế nào chị thuyết phục?
* Không có báo cáo về đề tài: Media Booking
-------------------------------------------------------------------------------------------------------
Còn riêng Hoàng, nếu là vai trò Giám Đốc Truyền Thông, Hoàng sẽ thức hiện các giai đoạn sau:
- Tuyển dụng và thiết lập nhóm: Chú trọng đến người có kinh nghiệm từ hai - ba năm vì Hoàng không có nhiều kinh nghiệm, song song Hoàng sẽ chủ động học những khóa đào tạo về ngành này.
- Đào tạo: khi có được nhân viên, cần cho nhân viên biết mục tiêu của công ty và của phòng ban. Tất cả cùng có chung tầm nhìn và hướng đi sẽ dễ đi đến mục đích
- Nghiên cứu: Vì có hai nhánh: Sản xuất phim và Quảng cáo trong phim; Hoàng sẽ thiết lập nghiên cứu thị trường cho hai nhánh khác nhau. đối với sản xuất phim: sẽ nghiên cứu xu hướng làm phim tức xu hướng đề tài lẫn ê kíp làm phim bao gồm cả nhà biên kịch, đạo diễn, diễn viên...được quan tâm gần nhất để qua đó thu hút được khán giả và khi có khán giả là có quảng cáo. Đôi khi sẽ làm những phim nghệ thuật không nhằm lợi nhuận, cốt ý tạo được tiếng vang và uy tín cho công ty nếu bộ phim đó được giải liên hoan quốc tế. Về quảng cáo trong phim, Hoàng sẽ nghiên cứu về các đối thủ cạnh tranh, về đối tác tiềm năng và về nhu cầu khán giả, để có được cái nhìn toàn cảnh nhưng chi tiết cho cả nhóm. Đây là công việc mệt nhọc và nản lòng nhất đôi khi phải thuê ngoài.
- Lập kế hoạch: Khi có được báo cáo nghiên cứu, Hoàng và nhóm sẽ thảo một kế hoạch cho riêng hai nhánh cho hai nhóm phụ. Sẽ có buổi làm việc chung để tạo thành một kế hoạch tổng quát vì hai nhanh này liên quan chặt chẽ với nhau.
- Thực hiện: Có trong tay kịch bản hành động cho nhóm, cả nhóm sẽ chia ra làm việc. Mỗi tuần sẽ có một buổi họp nhóm, nhằm báo cáo tiến độ, chia sẽ, đưa ra vấn đề và giả pháp
- Lượng giá: Khách hàng không bao giờ sai. Đón nhận đánh giá của khách hàng cho mỗi dự án là tối quan trọng. Khi dự án kết thúc, bao giờ cũng có phần đánh giá nội bộ và đánh giá từ khách hàng. Nhằm rút tiả kinh nghiệm cho các dự án tiếp theo.
Viết điều này là hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm Hoàng có khi làm project manager cho công ty Star Vietnam.
Ý kiến bạn đọc